Vào tháng 1, một sinh viên Trung Quốc tại Đại học Sheffield ở Anh đã bị quấy rối bằng lời nói và thể xác vì đeo mặt nạ. Hồi tháng 2, một phụ nữ Trung Quốc đã bị tấn công ở Mỹ đeo mặt nạ và bị đánh dấu là “đại dịch”.
Ở các nước châu Á, ký ức về SARS của người dân 17 năm trước vẫn còn gặp khó khăn và đeo mặt nạ đã trở thành thói quen. Nhiều người tin rằng việc giảm sự lây lan của Covid-19 là một trách nhiệm, điều này đã gây ra 120.000 ca nhiễm bệnh tại hơn 100 quốc gia / khu vực trên thế giới. Một số công ty không cho phép khách hàng vào cửa hàng mà không có mặt nạ. Ở các thành phố lớn như Bắc Kinh và Thượng Hải, chính quyền yêu cầu công dân phải đeo mặt nạ ở những nơi công cộng.
Nhưng ở nhiều nước phương Tây, mặt nạ có thể phân biệt chủng tộc và phỉ báng. Châu Á. Maria Sin Shu-ying-ying của Đại học Hồng Kông đã viết vào năm 2014 rằng mối quan hệ giữa SARS và mặt nạ bởi vì chính mặt nạ đã trở thành bản sắc của bệnh nhân và đã được hiểu trên phương tiện truyền thông phương Tây. Đó là một hiện tượng độc đáo ở Châu Á. ” -Theo nhà xã hội học Harris Ali của Đại học York (Canada), ở Bắc Mỹ, mặt nạ vẫn tiếp xúc với người châu Á và “được coi là một tiêu chuẩn bên ngoài” và do đó không được chấp nhận.
Người Hồng Kông đã hình thành văn hóa đeo mặt nạ kể từ khi dịch SARS năm 2003. Ảnh: SCMP .
Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo rằng những người có sức khỏe tốt không cần đeo khẩu trang. Đầu tháng 3, bác sĩ phẫu thuật Hoa Kỳ Jerome Adams, phát ngôn viên y tế công cộng của chính phủ, kêu gọi người Mỹ ngừng mua khẩu trang vì vệ sinh Công nhân thiếu các thiết bị để cung cấp chăm sóc sức khỏe. — “Khẩu trang không hiệu quả trong việc ngăn chặn virus corona, nhưng nếu nhân viên y tế không cho phép họ làm việc, nó sẽ khiến họ và cộng đồng gặp nguy hiểm. Jerome Adams.
Có nhiều ý kiến cho rằng việc rửa tay là quan trọng hơn, và nhiều chuyên gia cho rằng mặt nạ có thể giúp ngăn ngừa sự lây lan của những người không có triệu chứng. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng nền tảng văn hóa là ở những người sẵn sàng đeo nó. Đóng vai trò quan trọng. Mặt nạ rất phổ biến ở châu Á. Không chỉ lây lan virus mà còn ngăn ngừa ô nhiễm không khí và thậm chí chống lại cảm lạnh. Từ những năm 1918, Nhật Bản luôn là một quốc gia điển hình đeo mặt nạ, khi dịch cúm Tây Ban Nha là tồi tệ nhất Mặc đã trở thành một nghi thức tự bảo vệ và trách nhiệm tập thể, với sự gắn kết xã hội.
“Trong những năm 1970 và 1980, mọi người bắt đầu sử dụng nó để ngăn chặn cơn sốt mùa hè”, một giáo viên từ Đại học Shumei nghiên cứu về lịch sử đeo mặt nạ ở Nhật Bản Mitsutoshi Horii cho biết. Gần đây, vì lo ngại về ô nhiễm không khí từ Trung Quốc, mọi người bắt đầu đeo nó nhiều hơn.

Người Nhật cũng đeo mặt nạ để che các khuyết điểm trên khuôn mặt, giữ ấm trong mùa đông và giảm sự nhút nhát. “Nhật Bản lấy đó làm ví dụ. Một cách tự nhiên để cảm thấy an toàn hơn. Nhưng ở các nước phương Tây, mọi người có suy nghĩ tiêu cực về mặt nạ do biểu cảm khuôn mặt tự do và tự tin. “. – Một phụ nữ đeo mặt nạ khi đi mua sắm ở Seoul, Hàn Quốc. Harris Ali nói thêm rằng dịch SARS và đeo mặt nạ ở Hồng Kông tượng trưng cho sự đoàn kết với căn bệnh và thậm chí bày tỏ sự ngờ vực của chính phủ. – Vì vậy, do một loạt các nhà thiết kế thời trang và một nhóm các chàng trai Hàn Quốc, mặt nạ bảo vệ ngày càng trở nên phổ biến. Nhưng cho đến nay, người phương Tây ngày càng quen thuộc với mặt nạ. Nhiều ngôi sao phương Tây thậm chí còn đeo mặt nạ Selfie. Nhà thiết kế người Croatia đã tạo ra một loạt mặt nạ thú vị cho người Hồi giáo. Nhiều người yêu thích đeo chúng cho đám cưới lớn … Theo Harris Ali, nỗi sợ dịch bệnh có thể khiến mọi người cảm thấy Khi sự phân biệt đối xử của “văn hóa giả vờ” giảm xuống, việc thay đổi khái niệm này trong văn hóa phương Tây trở nên khó khăn hơn. — Bảo Nhien (theo SCMP)